Tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may đã tăng liên tục từ mức 1,15 tỷ USD vào năm 1996 lên gần 2 tỷ USD vào năm 2001 và xấp xỉ 7,8 tỷ USD vào năm 2007 và khoảng 9,1 tỷ USD vào năm 2008. Trong 10 tháng đầu năm 2009, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành dệt may đạt giá trị xuất khẩu gần 7,5 tỷ USD, chỉ giảm khoảng 1,5% so với cùng kỳ năm 2008. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu đã tăng khá nhanh kể từ năm 2002 đến nay, với mức tăng trung bình trong giai đoạn 2002-2008 khoảng 22%/năm.
Theo thị trường, Hoa Kỳ có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất, đặc biệt là kể từ năm 2002 trở lại đây khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Chỉ riêng trong năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đã tăng hơn 21 lần lên hơn 950 triệu USD, so với mức 45 triệu USD của năm 2001. Kể từ năm 2002 đến nay, xuất khẩu của hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cũng luôn tăng trưởng nhanh, đạt mức 3,8 tỷ USD vào năm 2007.
Tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam cũng tăng tương ứng, từ mức xấp xỉ 34,6% vào năm 2002 lên gần 50,7% vào năm 2007. Các thị trường chủ yếu khác của hàng dệt may Việt Nam là EU và Nhật Bản. Thị trường EU có mức tăng khá ổn định, từ mức 225 triệu USD vào năm 1996 lên 1,5 tỷ USD vào năm 2007. Trong khi đó, xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản có diễn biến phức tạp hơn, mặc dù vẫn thể hiện xu hướng tăng: giá trị xuất khẩu năm 2000 là 620 triệu USD, giảm xuống còn 514 triệu USD vào năm 2003 và tăng liên tục lên 800 triệu USD vào năm 2007. Chỉ riêng ba thị trường này đã chiếm hơn 81% giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, mặc dù đã giảm so với mức đỉnh điểm gần 85,9% vào năm 2004.
Việc mở rộng tiếp cận thị trường xuất khẩu cũng góp phần tạo điều kiện cho ngành dệt may không ngừng lớn mạnh. Trong giai đoạn 2000-2006, ngành đã tạo thêm việc làm cho khoảng 600.000 lao động. Tính theo giá so sánh (năm 1994), trong giai đoạn 2000-2008, giá trị sản xuất của ngành dệt đã tăng gần 2,7 lần, từ gần 10.040 tỷ đồng lên hơn 26.950 tỷ đồng. Ngành may mặc thậm chí còn đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, từ mức 6.040 tỷ đồng lên gần 26.620 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc chủ yếu là từ nguồn nhập khẩu. Trong khi đó, ngành dệt hầu như chưa đáp ứng được đủ yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) cho ngành may. Nói cách khác, mối liên kết giữa ngành dệt và ngành may mặc còn chưa thật sự chặt chẽ. Ngành dệt còn mang hơi hướng thay thế nhập khẩu, nhưng lại chưa đạt hiệu quả và quy mô sản xuất cần thiết. Trong khi đó, ngành may mặc có tính định hướng xuất khẩu cao, nhưng lại phải dựa vào nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Giá trị xuất khẩu hàng dệt may trong giai đoạn 2000-2003 thậm chí còn thấp hơn giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu, và chỉ đạt giá trị tương đương trong những năm gần đây. Điều này là do ngành may mặc còn phải phục vụ cả nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu, nên phải nhập khẩu nhiều nguyên phụ liệu hơn. Mặc dù vậy, điều này lại ảnh hưởng đến việc cân đối ngoại tệ trong ngành dệt may.
Bảng: Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may, 2000-2008
Đơn vị tính: Triệu USD
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
Nhập khẩu
|
|
Bông
|
105.4
|
190.2
|
167.21
|
219.0
|
268
|
468
|
Sợi
|
317.5
|
338.8
|
339.59
|
544.6
|
744
|
788
|
Vải các loại
|
1.805,4
|
1.926,7
|
2.398,96
|
2.984,0
|
3.980
|
4.454
|
Nguyên phụ liệu máy móc, phụ tùng
|
1.825,9
|
1.724,3
|
1.774,2
|
1.952,0
|
2.152
|
2.376
|
Cộng nhập (chưa kể hóa chất thuốc nhuộm)
|
4.054,2
|
4.180,0
|
4.679,96
|
5.699,6
|
7.144
|
8.086
|
Kim ngạch xuất khẩu
|
3.609,1
|
4.385,6
|
4.838,4
|
5.834,0
|
7.794
|
9.082
|
Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm đáng kể nhu cầu đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều biện pháp điều chỉnh, nhưng việc thực hiện mục tiêu xuất khẩu 9,5 tỷ USD trong năm 2009 của các doanh nghiệp dệt may dường như rất khó khăn.
Tại thị trường Hoa Kỳ - thị trường lớn nhất với tỷ trọng trên 55% trong giá trị xuất khẩu dệt may - các doanh nghiệp đã nỗ lực phối hợp với các nhà nhập khẩu trong việc xác định lại cơ cấu giá cả hợp lý trên cơ sở vẫn giữ vững chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Nhờ đó trong năm 2008, hàng dệt may Việt Nam đạt kim ngạch vào Hoa Kỳ trên 5,1 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2007. Trong 9 tháng đầu năm 2009, nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ giảm đến 12,7% và hàng nhập từ hầu hết các nước sản xuất chính đều giảm (từ Hồng Kông giảm 21%, từ Indonesia giảm 2,9%, từ Thái Lan giảm 25,6% và từ Ấn Độ giảm 7,7%). Tuy nhiên, hàng dệt may Việt Nam xuất vào thị trường này vẫn tăng 18% về lượng và chỉ giảm 4,5% về giá trị.
Tại thị trường Châu Âu - chiếm khoảng 20% giá trị xuất khẩu, các doanh nghiệp đã cải thiện chất lượng và mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho nhà nhập khẩu cũng như tuân thủ quy chế mới về an toàn cho người tiêu dùng. Nhờ đó, giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 đạt xấp xỉ 1,25 tỷ USD, chỉ giảm 3,5% trong điều kiện nhập khẩu chung vào thị trường này giảm hơn 11% so với cùng kỳ năm trước.
Tại thị trường Nhật Bản - thị trường lớn thứ ba của ngành dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp đã tăng cường hoạt động xúc tiến hợp tác đầu tư, thương mại với đối tác Nhật Bản. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này không ngừng tăng trưởng (năm 2008 tăng 12% và 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15,3 %). Đây là kết quả đáng ghi nhận trong điều kiện nền kinh tế Nhật Bản cũng bị suy giảm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực để xúc tiến các thị trường mới. Trong 9 tháng đầu năm 2009, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc đã tăng 50%, Ảrập Xêut tăng 23%, Thụy Sĩ tăng 12,7% và các nước ASEAN tăng 7,8%.
Tại thị trường nội địa, nhiều doanh nghiệp đã tập trung đổi mới toàn diện chiến lược phục vụ cho người tiêu dùng. Các biện pháp đã và đang được thực hiện bao gồm đầu tư mạnh hơn vào nghiên cứu thị trường, thị hiếu, tăng cường công tác thiết kế thời trang và sản phẩm mới, tổ chức dây chuyền sản xuất chuyên biệt phù hợp, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị tại các thành phố lớn kết hợp với chương trình đưa hàng về nông thôn và tăng uy tín thương hiệu. Những biện pháp này cũng thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong việc thực hiện chiến lược lấy nội địa làm thị trường cơ bản để tồn tại và vượt qua suy thoái của nhiều doanh nghiệp.
Bài viết có sử dụng tài liệu nghiên cứu tác động của việc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam - Dự án VIE/61/94.
Theo vietrade.gov.vn/